Ngộ độc cấp là gì? Các công bố khoa học về Ngộ độc cấp

Ngộ độc cấp là tình trạng mà cơ thể bị tiếp xúc hoặc ngụy trang chất độc trong một thời gian ngắn và gây ra những biểu hiện và triệu chứng nghiêm trọng. Ngộ độc...

Ngộ độc cấp là tình trạng mà cơ thể bị tiếp xúc hoặc ngụy trang chất độc trong một thời gian ngắn và gây ra những biểu hiện và triệu chứng nghiêm trọng. Ngộ độc cấp có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm sử dụng chất ma túy, uống rượu quá nhiều, tiếp xúc với chất công nghiệp độc hại, sử dụng thuốc trừ sâu không đúng cách, hoặc sử dụng quá liều thuốc. Những triệu chứng thường gặp trong trường hợp ngộ độc cấp có thể bao gồm buồn nôn, ói mửa, đau bụng, suy hô hấp, giảm huyết áp, hoặc thậm chí tử vong nếu không có sự can thiệp y tế kịp thời.
Ngộ độc cấp có thể được chia thành các loại sau:

1. Ngộ độc chất ma túy: Khi sử dụng chất ma túy như heroin, cocaine, ecstasy... quá liều hoặc không đúng cách, cơ thể có thể chịu ảnh hưởng mạnh từ các chất này và gây ra các triệu chứng như hoa mắt, chóng mặt, co giật, ngất xỉu, suy hô hấp, rối loạn nhịp tim và thậm chí gây tử vong.

2. Ngộ độc rượu: Uống rượu quá nhiều và quá nhanh có thể gây ra ngộ độc rượu. Triệu chứng thường bao gồm nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa, mất thăng bằng, rối loạn nhận thức, suy giảm chức năng tình dục, và trong trường hợp nặng có thể dẫn đến việc tụt huyết áp, quấy rối tỉnh táo, suy hô hấp và nguy hiểm đến tính mạng.

3. Ngộ độc chất công nghiệp: Tiếp xúc với các chất độc hại trong môi trường làm việc hoặc do tai nạn làm phôi thai có thể gây ngộ độc cấp. Các chất độc thường gặp bao gồm thủy ngân, chì, amiang, oxy hóa các kim loại nặng như sắt, đồng. Triệu chứng của ngộ độc chất công nghiệp có thể là khó thở, ho, đau ngực, mất trí, mệt mỏi, nôn mửa, và có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.

4. Ngộ độc thuốc trừ sâu: Sử dụng hoặc tiếp xúc với thuốc trừ sâu không đúng cách có thể gây ra ngộ độc. Triệu chứng thường bao gồm buồn nôn, nôn mửa, ho, khó thở, đau ngực, mệt mỏi, gây tổn thương cho hệ thần kinh và nồng độ chất độc cao có thể dẫn đến mất ý thức, co giật, hôn mê và tử vong.

Trong trường hợp nghi ngờ bị ngộ độc cấp, cần ngay lập tức gọi số cấp cứu và yêu cầu trợ giúp y tế chuyên môn để cứu giúp người bị tổn thương.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ngộ độc cấp":

Gen thứ hai của vỏ bọc polysaccharide của Cryptococcus neoformans, CAP64, là yếu tố thiết yếu cho tính độc lực Dịch bởi AI
Infection and Immunity - Tập 64 Số 6 - Trang 1977-1983 - 1996

Vỏ polysaccharide ngoại bào được tạo ra bởi Cryptococcus neoformans là yếu tố cần thiết cho khả năng gây bệnh của nó. Chúng tôi đã phân lập và đặc điểm hóa một gen, (AP64, cần thiết cho sự hình thành vỏ bọc. Một chủng bọc kín được tạo ra bằng cách bổ sung đột biến cap64 gây ra nhiễm trùng gây tử vong ở chuột trong vòng 25 ngày, trong khi chủng không bọc cap64 không có độc lực. Xóa gen CAP64 từ một chủng loại hoang dã dẫn đến mất vỏ cũng như độc lực. Phân tích gel điện ly trường điện thống nhất cho thấy rằng CAP64 được đặt trên nhiễm sắc thể III, khác với vị trí của một gen liên quan đến vỏ khác, CAP59. Sự không liên kết giữa CAP64 và CAP59 cũng được ủng hộ bởi phân tích tái tổ hợp cổ điển. Tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu không tiết lộ bất kỳ trình tự nào có độ tương đồng cao với CAP64. Chúng tôi cũng phát hiện rằng vị trí CAP64 nằm liền kề với một gen được phiên mã hội tụ có sự tương đồng đáng kể với gen mã hóa tiểu đơn vị proteasome của nấm men, PRE1. Khoảng cách giữa các đầu cDNA của hai gen này chỉ là 22 bp. Nghiên cứu này khẳng định bằng chứng di truyền phân tử trước đây rằng vỏ là yếu tố thiết yếu cho tính độc lực của C. neoformans trong mô hình chuột.

#Cryptococcus neoformans #vỏ polysaccharide ngoại bào #độc lực #CAP64 #CAP59 #điện ly trường điện đồng nhất #tái tổ hợp #proteasome #PRE1 #gen
Khả năng ngôn ngữ và đọc của trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ và rối loạn ngôn ngữ đặc hiệu cùng với người thân cấp một của chúng Dịch bởi AI
Autism Research - Tập 2 Số 1 - Trang 22-38 - 2009
Abstract

Rối loạn phổ tự kỷ (ASD) và rối loạn ngôn ngữ đặc hiệu (SLI) là các rối loạn phát triển biểu hiện bằng các thiếu hụt ngôn ngữ, nhưng vẫn chưa rõ chúng phát sinh từ các nguyên nhân tương tự hay không. Các thiếu hụt ngôn ngữ đã được mô tả ở các thành viên trong gia đình của trẻ em mắc ASD và SLI, nhưng rất ít nghiên cứu đã định lượng chúng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xem xét IQ, khả năng ngôn ngữ và đọc của trẻ em ASD và SLI cùng với người thân cấp một của chúng để xác định liệu những khó khăn về ngôn ngữ mà một số trẻ ASD gặp phải có phải là vấn đề gia đình hay không, và để hiểu rõ hơn về mức độ giao thoa giữa các rối loạn này cùng với các kiểu hình rộng hơn của chúng. Số liệu tham gia bao gồm 52 trẻ em tự kỷ, 36 trẻ em mắc SLI, cùng với anh chị em và cha mẹ của chúng. Nhóm ASD được chia thành những trẻ có (ALI, n=32) và không có (ALN, n=20) thiếu hụt ngôn ngữ. Mối quan hệ giữa mức độ nghiêm trọng của ASD và hiệu suất ngôn ngữ cũng đã được xem xét ở các trường hợp ASD. Các trường hợp ALI và SLI đã thể hiện hiệu suất tương tự trên hầu hết các chỉ số trong khi các trường hợp ALN đạt điểm cao hơn. Điểm ngôn ngữ của các trường hợp ALN và ALI không có mối liên quan đến điểm của phỏng vấn chẩn đoán tự kỷ - Đã sửa đổi và điểm số của lịch quan sát chẩn đoán tự kỷ. Các người thân của SLI đạt điểm thấp nhất trên tất cả các thang đo, và mặc dù điểm số không nằm trong phạm vi suy giảm, nhưng người thân của trẻ ALI có điểm thấp hơn so với người thân của trẻ ALN ở một số thang đo, mặc dù không phải ở những thang đo thể hiện tính di truyền cao nhất trong SLI. Như vậy, với việc người thân ALI thực hiện tốt hơn so với người thân SLI trong các thang đo về ngôn ngữ, giả thuyết rằng các gia đình ALI và SLI chia sẻ tải trọng di truyền tương tự cho ngôn ngữ không được hỗ trợ mạnh mẽ.

Di chứng thần kinh tâm lý muộn sau ngộ độc carbon monoxide: các yếu tố nguy cơ dự đoán tại Khoa Cấp cứu. Một nghiên cứu hồi cứu Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 19 Số 1 - 2011
Tóm tắt Nền tảng

Các di chứng thần kinh tâm lý muộn (DNS) thường xảy ra sau khi hồi phục từ ngộ độc carbon monoxide (CO) cấp tính. Vai trò phòng ngừa và các chỉ định trong liệu pháp oxy cao áp ở giai đoạn cấp tính vẫn còn gây tranh cãi. Việc xác định sớm những bệnh nhân có nguy cơ tại Khoa Cấp cứu có thể cho phép cải thiện chất lượng chăm sóc. Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu hồi cứu để xác định các yếu tố nguy cơ dự đoán cho sự phát triển của DNS tại Khoa Cấp cứu.

Phương pháp

Chúng tôi đã hồi cứu tất cả các bệnh nhân bị ngộ độc CO được nhập viện tại Khoa Cấp cứu của Bệnh viện Đại học Careggi (Florence, Ý) từ năm 1992 đến 2007. Bệnh nhân được mời tham gia ba lần theo dõi sau khi xuất viện vào một tháng, six tháng và mười hai tháng. Dữ liệu lâm sàng và sinh học được thu thập; phân tích đơn biến và đa biến được thực hiện để xác định các yếu tố nguy cơ dự đoán cho DNS.

Kết quả

Bốn trăm bốn mươi bảy bệnh nhân đã được nhập viện tại Khoa Cấp cứu do ngộ độc CO cấp tính từ năm 1992 đến 2007; 141/347 bệnh nhân đã tham gia vào lần theo dõi sau một tháng từ khi xuất viện. Ba mươi bốn/141 bệnh nhân được chẩn đoán có DNS (24.1%). Năm/34 bệnh nhân trước đó được chẩn đoán có DNS đã tham gia lần theo dõi sau sáu tháng, báo cáo đã hồi phục hoàn toàn. Các biến sau (thu thập trước hoặc tại thời điểm nhập viện Khoa Cấp cứu) có liên quan đến sự phát triển của DNS sau một tháng từ khi xuất viện trong phân tích đơn biến: thời gian tiếp xúc với CO >6 giờ, điểm Glasgow Coma Scale (GCS) <9, cơn động kinh, huyết áp động mạch tâm thu <90 mmHg, nồng độ creatine phosphokinase tăng cao và bạch cầu cao. Không có mối tương quan đáng kể nào với tuổi, giới tính, tiếp xúc tự nguyện, đau đầu, mất ý thức tạm thời, GCS giữa 14 và 9, nồng độ lactate động mạch và carboxyhemoglobin. Phân tích đa biến xác nhận các yếu tố tiên đoán độc lập GCS <9 (OR 7.15; CI 95%: 1.04-48.8) và bạch cầu cao (OR 3.31; CI 95%: 1.02-10.71).

Kết luận

Nghiên cứu của chúng tôi đã xác định một số yếu tố nguy cơ dự đoán tiềm năng cho DNS. Các thuật toán điều trị dựa trên phân loại nguy cơ thích hợp của bệnh nhân tại Khoa Cấp cứu có thể làm giảm tỷ lệ mắc DNS; tuy nhiên, cần có thêm nhiều nghiên cứu. Theo dõi đầy đủ sau khi xuất viện, nhằm mục đích nhận diện đúng DNS, cũng rất quan trọng.

Biến chứng và quản lý ngộ độc đồng sulfat cấp tính; một thảo luận trường hợp Dịch bởi AI
Journal of Occupational Medicine and Toxicology - - 2011
Tóm tắt

Nuốt phải đồng sulfat (không cố ý hoặc cố ý) là một dạng ngộ độc hiếm gặp thường chỉ xuất hiện ở tiểu lục địa Ấn Độ. Mặc dù tỷ lệ ngộ độc đang có xu hướng giảm, nhưng điều quan trọng là các bác sĩ cần nhận thức được các biến chứng gây tử vong và chiến lược quản lý liên quan. Các biến chứng chính của việc nuốt phải đồng sulfat bao gồm tan máu nội mạch, methemoglobinaemia, tổn thương thận cấp tính và hủy cơ vân. Liều gây tử vong có thể nhỏ tới 10 gram. Chúng tôi đã khám phá các biến chứng của ngộ độc đồng sulfat cấp tính với các ví dụ từ hai trường hợp trình bày. Chúng tôi cũng khuyến nghị các biện pháp nhằm ngăn ngừa những sự kiện như vậy.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ CÁC TÁC NHÂN GÂY NGỘ ĐỘC CẤP Ở TRẺ EM TẠI TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và tác nhân thường gây ngộ độc cấp ở trẻ em tại Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên 200 bệnh nhân ngộ độc cấp dưới 18 tuổi điều trị tại Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai từ 7/2014 đến 6/2015. Kết quả: tuổi trung bình là 14,4±3,94 tuổi, gặp nhiều nhất là nhóm tuổi vị thành niên (63,5%). Tỉ lệ nam/nữ là 1,1. Ngộ độc do không cố ý là 52,5% (chủ yếu do tai nạn, ngộ độc thực phẩm); Ngộ độc do cố ý là 47% (chủ yếu tự tử), bị đầu độc 0,5%. Ngộ độc do cố ý ở trẻ nữ nhiều hơn nam (p<0,05). Đường ngộ độc chủ yếu là qua đường tiêu hóa (71%); đến viện sớm trong vòng 6 giờ sau khi bị ngộ độc (63,5%). Tác nhân chính gây ngộ độc cấp là: hóa chất (40%, chủ yếu là hóa chất bảo vệ thực vật); động vật cắn (27%); thực phầm (16,5%); thuốc (12,5%); chất gây nghiện (4%). Kết luận: Hoàn cảnh và các tác nhân gây ngộ độc cấp ở trẻ em rất đa dạng và phức tạp. Cần tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục về nguy cơ, tác nhân và cách phòng tránh ngộ độc ở trẻ em.
#ngộ độc cấp #trẻ em #trung tâm chống độc
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN NGỘ ĐỘC CẤP HÓA CHẤT DIỆT CỎ GLUFOSINAT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nhận xét kết quả điều trị bệnh nhân ngộ độc cấp hóa chất diệt cỏ glufosinat tại Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 64 bệnh nhân ngộ độc cấp glufosinat tại Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 6 năm 2022. Kết quả: 64 bệnh nhân nghiên cứu với độ tuổi trung bình là 39,0 ± 14,1 tuổi, có 46 bệnh nhân nam (71,9%), 18 bệnh nhân nữ (28,1%). Lượng uống của nhóm đối tượng nghiên cứu với trung vị là 9 gram (khoảng tứ phân vị: 6-15 gram). Thời gian đến viện trung bình 4,5 giờ sau uống. Đặc điểm lâm sàng biểu hiện ở các cơ quan: tiêu hóa gặp nhiều nhất (79,4%) xuất hiện sớm trong 1 giờ đầu, thần kinh (40,6%) co giật xuất hiện muộn trong khoảng 24 giờ đến 65 giờ sau uống, tim mạch (21,9%), hô hấp (15,6%). Cận lâm sàng: điện não đồ có sóng động kinh 9 bệnh nhân 14,1%, NH3 máu lúc vào viện tăng giúp tiên lượng các triệu chứng thần kinh muộn. Kết quả điều trị: khỏi hoàn toàn 96,9%, di chứng 3,1%. Thời gian nằm viện trung bình là 5 ngày. Kết luận: Ngộ độc glufosinat gây tổn thương đa cơ quan, triệu chứng thần kinh khó điều trị do xuất hiện muộn.
#Glufosinat #diệt cỏ #ngộ độc cấp
TOAN LACTIC Ở BỆNH NHÂN NGỘ ĐỘC MỘT SỐ THUỐC VÀ HÓA CHẤT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm một số thuốc và hóa chất gây ngộ độc cấp có toan lactic. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 127 bệnh nhân ngộ độc cấp có toan lactic điều trị tại Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ 07/2019 - 07/2020. Kết quả: Ngộ độc rượu: ngộ độc methanol có lactat lúc vào cao hơn ethanol (9,4 và 4,7 mmol/l; p<0,01); lactat về bình thường chậm hơn (27,8 và 8,2 giờ; p<0,01); vào viện muộn hơn, biến chứng nặng và suy đa tạng nhiều hơn ethanol (p<0,01); chỉ gặp tử vong ở BN ngộ độc methanol (40%), lactat vào viện ≥10 mmol/l tử vong 66,7%. Ngộ độc paracetamol: vào viện sớm sau uống 3,7 giờ với lactat trung bình 4,7 mmol/L và về bình thường sau 9,5 giờ; tăng lactat nhẹ và trung bình; không có biến chứng nặng và tử vong. Ngộ độc biguanid: vào viện muộn trung bình sau 52 giờ, tăng lactat nặng (100%), về bình thường chậm sau 48 giờ; 100% toan chuyển hóa nặng và suy đa tạng; tử vong cao 33%. Ngộ độc cyanua: vào viện sớm sau 1,6 giờ, tăng lactat nặng (40%), về bình thường sau 14,4 giờ; suy đa tạng và tử vong 20%. Kết luận: Cần đánh giá mức độ tăng lactat cùng với mức độ nặng của ngộ độc cấp một số thuốc và hóa chất để giúp tiên lượng và xử trí sớm cho bệnh nhân
#toan lactic #ngộ độc cấp
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN NGỘ ĐỘC CẦN SA, CẦN SA TỔNG HỢP TẠI TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ngộ độc cần sa (THC) và một số cần sa tổng hợp (CSTH). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 48 bệnh nhân được chẩn đoán ngộ độc cấp cần sa, cần sa tổng hợp điều trị tại Trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 2/2020 đến 8/2021. Kết quả: Trong số bệnh nhân nghiên cứu có 39 bệnh nhân nam (81,3%), tuổi trung bình là 28,1 ± 11,5 (13–61) tuổi. Thời gian trung bình xuất hiện triệu chứng ngộ độc là 9 ± 6,6 phút, dạng chất sử dụng chủ yếu là sợi thực vật 54,2 %, hình thức sử dụng hút thuốc chiếm 87,5%, nhỏ dưới lưỡi 8,3%, ăn uống (4,2%), xịt họng (2,1%). Các triệu chứng nhiễm độc thần kinh và tâm thần xuất hiện sớm ngay sau khi ngộ độc chóng mặt, mất điều hòa hoặc giảm khả năng phối hợp động tác (64,6%), kích động 47,9%, ảo thanh, ảo thị (45,8%), giảm ý thức, ngất (33,3%), co giật (20,8%), hoang tưởng bị hại (16,7%), khó thở (35,4%). Cận lâm sang: toan chuyển hóa 12,8 %, tiêu cơ vân cấp 10,4 %, hạ kali máu 47,9 %. Rối loạn nhịp tim thường gặp nhất là nhịp nhanh xoang (35,4%), nhịp chậm xoang (2,1%) và loạn nhịp xoang 1 bệnh nhân (2,1%). Nhóm bệnh nhân ngộ độc cần sa tổng hợp xu hướng xuất hiện các triệu chứng rầm rộ, nguy hiểm đến tính mạng nhiều hơn so với nhóm THC. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ngộ độc Cần sa, Cần sa tổng hợp, giúp ích cho xử trí sớm cũng như tiên lượng được các biến chứng.
#cần sa #THC #cần sa tổng hợp #ngộ độc cấp
Tác nhân ngộ độc và các mối liên quan ở bệnh nhân ngộ độc cấp có tổn thương thận
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu các tác nhân gây ngộ độc và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đặc điểm tổn thương thận cấp ở bệnh nhân ngộ độc có tổn thương thận cấp. Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 73 bệnh nhân ngộ độc cấp có tổn thương thận cấp điều trị tại Trung tâm Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2019 đến 7/2020. Các biến số nghiên cứu được thu thập theo mẫu bệnh án thống nhất. Kết quả cho thấy tác nhân gây ngộ độc chiếm tỉ lệ cao nhất là hóa chất bảo vệ thực vật (28,8%), tiếp đến ngộ độc ma túy tổng hợp (24,7%), thuốc (17,8%), rượu (15,1%), tác nhân khác (13,6%). Tỉ lệ các dấu hiệu nặng gặp nhiều nhất trong ngộ độc ma túy: tụt huyết áp (61,1%), suy hô hấp (83,3%), rối loạn ý thức (83,3%), suy đa tạng (88,9%), tăng kali  máu (77,8%), tiêu cơ vân (66,7%), tăng lactat (83,3%) cao hơn so với các tác nhân gây ngộ độc khác. Các hóa chất bảo vệ thực vật có tỉ lệ tổn thương thận tăng lên sau vào viện cao nhất (81%). Tỉ lệ tử vong cao nhất là nhóm ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật (57,1%), rượu (45,5%), tác nhân khác (20%), thuốc (15,4%), ma túy (5,6%). Kết luận: nghiên cứu chỉ ra các tác nhân gây ngộ độc cấp có tổn thương thận cấp thường gặp và mối liên quan với các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và đặc điểm tổn thương thận giúp hỗ trợ điều trị và tiên lượng cho bệnh nhân.
#Tác nhân gây ngộ độc #ngộ độc cấp #tổn thương thận cấp
HIỆU QUẢ CỦA PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ GIẢI ĐỘC ETHANOL ĐƯỜNG UỐNG Ở BỆNH NHÂN NGỘ ĐỘC CẤP METHANOL
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị giải độc ethanol đường uống ở bệnh nhân ngộ độc cấp methanol. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên có 61 bệnh nhânđược chẩn đoán ngộ độc cấp methanol điều trị tại Trung tâm chống độc (TTCĐ) Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2016 đến tháng 7/2018 có chỉ định điều trị bằng ethanol 20% theo phác đồ. Kết quả: Tuổi trung bình: 46,7±15 (16-71) tuổi, nam giới chiếm 93,4%. Nồng độ methanol máu rất cao, trung vị là 126 (20 - 569,7) mg/dL. Áp dụng phác đồ, nồng độ ethanol máu tăng dần, phần lớn (37/61 bệnh nhân) đạt mục tiêu sau sau 3,4 ± 2,36 giờ(60,7%), có 16/61 BN không đạt nồng độ ethanol mục tiêu trong suốt quá trình dùng ethanol (26,2%), có 8/61BN có thời điểm quá liều ethanol (13,1%). Thời gian điều trị trung vị là 4 (1-12) ngày. 28 BN sống không có di chứng (45,9%), 13 BN có di chứng ( 21,3%) và 20 BN tử vong chiếm tỉ lệ 32,8%. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy cho thấy việc sử dụng phác đồ giải độc bằng ethanol đường uống có hiệu quả trong điều trị ngộ độc methanol.
#ngộ độc cấp methanol #ethanol đường uống
Tổng số: 55   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6