Ngộ độc cấp là gì? Các công bố khoa học về Ngộ độc cấp

Ngộ độc cấp là tình trạng mà cơ thể bị tiếp xúc hoặc ngụy trang chất độc trong một thời gian ngắn và gây ra những biểu hiện và triệu chứng nghiêm trọng. Ngộ độc...

Ngộ độc cấp là tình trạng mà cơ thể bị tiếp xúc hoặc ngụy trang chất độc trong một thời gian ngắn và gây ra những biểu hiện và triệu chứng nghiêm trọng. Ngộ độc cấp có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm sử dụng chất ma túy, uống rượu quá nhiều, tiếp xúc với chất công nghiệp độc hại, sử dụng thuốc trừ sâu không đúng cách, hoặc sử dụng quá liều thuốc. Những triệu chứng thường gặp trong trường hợp ngộ độc cấp có thể bao gồm buồn nôn, ói mửa, đau bụng, suy hô hấp, giảm huyết áp, hoặc thậm chí tử vong nếu không có sự can thiệp y tế kịp thời.
Ngộ độc cấp có thể được chia thành các loại sau:

1. Ngộ độc chất ma túy: Khi sử dụng chất ma túy như heroin, cocaine, ecstasy... quá liều hoặc không đúng cách, cơ thể có thể chịu ảnh hưởng mạnh từ các chất này và gây ra các triệu chứng như hoa mắt, chóng mặt, co giật, ngất xỉu, suy hô hấp, rối loạn nhịp tim và thậm chí gây tử vong.

2. Ngộ độc rượu: Uống rượu quá nhiều và quá nhanh có thể gây ra ngộ độc rượu. Triệu chứng thường bao gồm nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa, mất thăng bằng, rối loạn nhận thức, suy giảm chức năng tình dục, và trong trường hợp nặng có thể dẫn đến việc tụt huyết áp, quấy rối tỉnh táo, suy hô hấp và nguy hiểm đến tính mạng.

3. Ngộ độc chất công nghiệp: Tiếp xúc với các chất độc hại trong môi trường làm việc hoặc do tai nạn làm phôi thai có thể gây ngộ độc cấp. Các chất độc thường gặp bao gồm thủy ngân, chì, amiang, oxy hóa các kim loại nặng như sắt, đồng. Triệu chứng của ngộ độc chất công nghiệp có thể là khó thở, ho, đau ngực, mất trí, mệt mỏi, nôn mửa, và có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.

4. Ngộ độc thuốc trừ sâu: Sử dụng hoặc tiếp xúc với thuốc trừ sâu không đúng cách có thể gây ra ngộ độc. Triệu chứng thường bao gồm buồn nôn, nôn mửa, ho, khó thở, đau ngực, mệt mỏi, gây tổn thương cho hệ thần kinh và nồng độ chất độc cao có thể dẫn đến mất ý thức, co giật, hôn mê và tử vong.

Trong trường hợp nghi ngờ bị ngộ độc cấp, cần ngay lập tức gọi số cấp cứu và yêu cầu trợ giúp y tế chuyên môn để cứu giúp người bị tổn thương.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ngộ độc cấp":

Gen thứ hai của vỏ bọc polysaccharide của Cryptococcus neoformans, CAP64, là yếu tố thiết yếu cho tính độc lực Dịch bởi AI
Infection and Immunity - Tập 64 Số 6 - Trang 1977-1983 - 1996

Vỏ polysaccharide ngoại bào được tạo ra bởi Cryptococcus neoformans là yếu tố cần thiết cho khả năng gây bệnh của nó. Chúng tôi đã phân lập và đặc điểm hóa một gen, (AP64, cần thiết cho sự hình thành vỏ bọc. Một chủng bọc kín được tạo ra bằng cách bổ sung đột biến cap64 gây ra nhiễm trùng gây tử vong ở chuột trong vòng 25 ngày, trong khi chủng không bọc cap64 không có độc lực. Xóa gen CAP64 từ một chủng loại hoang dã dẫn đến mất vỏ cũng như độc lực. Phân tích gel điện ly trường điện thống nhất cho thấy rằng CAP64 được đặt trên nhiễm sắc thể III, khác với vị trí của một gen liên quan đến vỏ khác, CAP59. Sự không liên kết giữa CAP64 và CAP59 cũng được ủng hộ bởi phân tích tái tổ hợp cổ điển. Tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu không tiết lộ bất kỳ trình tự nào có độ tương đồng cao với CAP64. Chúng tôi cũng phát hiện rằng vị trí CAP64 nằm liền kề với một gen được phiên mã hội tụ có sự tương đồng đáng kể với gen mã hóa tiểu đơn vị proteasome của nấm men, PRE1. Khoảng cách giữa các đầu cDNA của hai gen này chỉ là 22 bp. Nghiên cứu này khẳng định bằng chứng di truyền phân tử trước đây rằng vỏ là yếu tố thiết yếu cho tính độc lực của C. neoformans trong mô hình chuột.

#Cryptococcus neoformans #vỏ polysaccharide ngoại bào #độc lực #CAP64 #CAP59 #điện ly trường điện đồng nhất #tái tổ hợp #proteasome #PRE1 #gen
Khả năng ngôn ngữ và đọc của trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ và rối loạn ngôn ngữ đặc hiệu cùng với người thân cấp một của chúng Dịch bởi AI
Autism Research - Tập 2 Số 1 - Trang 22-38 - 2009
Abstract

Rối loạn phổ tự kỷ (ASD) và rối loạn ngôn ngữ đặc hiệu (SLI) là các rối loạn phát triển biểu hiện bằng các thiếu hụt ngôn ngữ, nhưng vẫn chưa rõ chúng phát sinh từ các nguyên nhân tương tự hay không. Các thiếu hụt ngôn ngữ đã được mô tả ở các thành viên trong gia đình của trẻ em mắc ASD và SLI, nhưng rất ít nghiên cứu đã định lượng chúng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xem xét IQ, khả năng ngôn ngữ và đọc của trẻ em ASD và SLI cùng với người thân cấp một của chúng để xác định liệu những khó khăn về ngôn ngữ mà một số trẻ ASD gặp phải có phải là vấn đề gia đình hay không, và để hiểu rõ hơn về mức độ giao thoa giữa các rối loạn này cùng với các kiểu hình rộng hơn của chúng. Số liệu tham gia bao gồm 52 trẻ em tự kỷ, 36 trẻ em mắc SLI, cùng với anh chị em và cha mẹ của chúng. Nhóm ASD được chia thành những trẻ có (ALI, n=32) và không có (ALN, n=20) thiếu hụt ngôn ngữ. Mối quan hệ giữa mức độ nghiêm trọng của ASD và hiệu suất ngôn ngữ cũng đã được xem xét ở các trường hợp ASD. Các trường hợp ALI và SLI đã thể hiện hiệu suất tương tự trên hầu hết các chỉ số trong khi các trường hợp ALN đạt điểm cao hơn. Điểm ngôn ngữ của các trường hợp ALN và ALI không có mối liên quan đến điểm của phỏng vấn chẩn đoán tự kỷ - Đã sửa đổi và điểm số của lịch quan sát chẩn đoán tự kỷ. Các người thân của SLI đạt điểm thấp nhất trên tất cả các thang đo, và mặc dù điểm số không nằm trong phạm vi suy giảm, nhưng người thân của trẻ ALI có điểm thấp hơn so với người thân của trẻ ALN ở một số thang đo, mặc dù không phải ở những thang đo thể hiện tính di truyền cao nhất trong SLI. Như vậy, với việc người thân ALI thực hiện tốt hơn so với người thân SLI trong các thang đo về ngôn ngữ, giả thuyết rằng các gia đình ALI và SLI chia sẻ tải trọng di truyền tương tự cho ngôn ngữ không được hỗ trợ mạnh mẽ.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ CÁC TÁC NHÂN GÂY NGỘ ĐỘC CẤP Ở TRẺ EM TẠI TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và tác nhân thường gây ngộ độc cấp ở trẻ em tại Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên 200 bệnh nhân ngộ độc cấp dưới 18 tuổi điều trị tại Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai từ 7/2014 đến 6/2015. Kết quả: tuổi trung bình là 14,4±3,94 tuổi, gặp nhiều nhất là nhóm tuổi vị thành niên (63,5%). Tỉ lệ nam/nữ là 1,1. Ngộ độc do không cố ý là 52,5% (chủ yếu do tai nạn, ngộ độc thực phẩm); Ngộ độc do cố ý là 47% (chủ yếu tự tử), bị đầu độc 0,5%. Ngộ độc do cố ý ở trẻ nữ nhiều hơn nam (p<0,05). Đường ngộ độc chủ yếu là qua đường tiêu hóa (71%); đến viện sớm trong vòng 6 giờ sau khi bị ngộ độc (63,5%). Tác nhân chính gây ngộ độc cấp là: hóa chất (40%, chủ yếu là hóa chất bảo vệ thực vật); động vật cắn (27%); thực phầm (16,5%); thuốc (12,5%); chất gây nghiện (4%). Kết luận: Hoàn cảnh và các tác nhân gây ngộ độc cấp ở trẻ em rất đa dạng và phức tạp. Cần tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục về nguy cơ, tác nhân và cách phòng tránh ngộ độc ở trẻ em.
#ngộ độc cấp #trẻ em #trung tâm chống độc
CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH NGỘ ĐỘC CẤP CÓ THỞ MÁY TẠI TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả chăm sóc người bệnh ngộ độc cấp có thở máy tại Trung tâm Chống độc bệnh viện Bạch Mai và xác định một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 135 người bệnh ngộ độc cấp có thở máy tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2020 đến 9/2020. Số liệu ghi nhận là kết hợp phiếu thu thập và chăm sóc người bệnh thở máy, bảng kiểm quy trình kỹ thuật và công cụ chăm sóc người bệnh. Kết quả: tỷ lệ người bệnh có kết quả chăm sóc tốt là 85,2%. Bệnh nhân được chăm sóc vỗ rung liệu pháp hô hấp có khả năng kết quả chăm sóc tốt cao gấp 4,93 lần (OR=4,93, p<0,05) so với việc không thực hiện vỗ rung. Chăm sóc cuff > 3 lần/ngày có khả năng kết quả chăm sóc tốt cao gấp 4,35  lần (OR=4,35, p<0,05) so với việc chăm sóc với tần suất ≤ 3 lần/ngày (p<0,05). Kết luận: chăm sóc điều dưỡng có vai trò rất quan trọng trong công tác chăm sóc người bệnh, đặc biệt ở người bệnh thở máy. Biện pháp vỗ rung, lý liệu pháp hô hấp và chăm sóc cuff cho kết quả chăm sóc tốt hơn.
#chăm sóc thở máy #ngộ độc cấp #điều dưỡng
NHẬN XÉT MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN KHI ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỐC CẤP METHANOL BẰNG ETHANOL ĐƯỜNG UỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Nhận xét một số tác dụng không mong muốn khi điều trị ngộ đốc cấp methanol bằng ethanol đường uống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên có 61 bệnh nhân được chẩn đoán ngộ độc cấp methanol điều trị tại Trung tâm chống độc (TTCĐ) Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2016 đến tháng 7/2018 có chỉ định điều trị bằng ethanol 20% theo phác đồ. Kết quả: Tuổi trung bình: 46,7 ± 15 tuổi, nam giới chiếm 93,4%. Ngộ độc đường uống là chủ yếu (98,4%), có 1 bệnh nhânngộ độc đường hô hấp (1,6%). Nồng độ methanol máu cao, trung vị 126 mg/dL. Các tác dụng không mong muốn khi sử dung ethanol đường uống là tình trạng ức chế thần kinh trung ương (18,2%),kích thích thần kinh trung ương (18,2%). Ngoài ra, trên hệ tiêu hóa, tình trạng buồn nôn (31,8%), nôn (10%), tăng transaminase (14,6) là biểu hiện hay gặp. Chỉ có 1 bệnh nhân có biểu hiện viêm dạ dày (1,6%), không có bệnh nhân nào bị xuất huyết tiêu hóa và viêm tụy cấp. Không gặp bệnh nhân nào có biến chứng viêm phổi sặc và hạ đường huyết, rối loạn điện giải. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy các tác dụng không mong muốn chính khi sử dụng Ethanol làm thuốc giải độc đặc hiệu cho bệnh nhân ngộ độc cấp methanol.
#methanol #ethanol đường uống #tác dụng không mong muốn
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ CỦA NGỘ ĐỘC CẤP MỘT SỐ MA TÚY MỚI TẠI TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ của bệnh nhân ngộ độc ma túy mới tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả 72bệnh nhân ngộ độc ma túy mới không phải nhóm opi điều trị tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2017 đến 6/2019. Kết quả: Chủ yếu gặp ở Nam giới (72,2%);tuổi trung bình là 30,57 ± 9,3 năm; người thất nghiệp 73,6%; trình độ trung học phổ thông trở xuống 65,3%; người độc thân 65,3%; sống ở thành phố 59,7% và nông thôn 40,3%. Một số loại ma túy mới thường gặp là Amphetamin (29,2%), MET (22,2%), MDMA (19,4%), THC (20,8%), Ketamin (8,3%); chủ yếu bệnh nhân dùng đường uống (79,2%), đường hút, hít là 20,8%. Bệnh nhân dùng ma túy  do nghiện (54,2%), được rủ (26,4%), do thói quen (19,4%); sử dụng tại vũ trường và địa điểm đông người (58,3%), tại nhà (41,7%); thường dùng vào ban đêm (72,2%); dùng cùng người khác (62,5%). Có 81,9% đã từng sử dụng ma túy trước đó và 18,1% ngộ độc ở lần đầu sử dụng. Kết luận: Đánh giá đặc điểm dịch tễ của ngộ độc ma túy cần thiết để xác định mô hình bệnh tật, giúp chẩn đoán và xử trí cấp cứu cho các bệnh nhân.
#ngộ độc ma túy
Vấn đề áp dụng giờ học e-NIE trong giảng dạy trực tuyến kỹ năng đọc tiếng Hàn Quốc cho sinh viên trình độ trung - cao cấp
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 7 Số 4b - Trang 726-736 - 2022
Hiện nay, dịch bệnh Covid 19 đang lan rộng trên toàn thế giới khiến cho việc học trực tuyến trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia. Các phần mềm học trực tuyến không ngừng được phát triển để đáp ứng nhu cầu học tập và làm việc online, đồng thời các giải pháp giáo dục online trong thời điểm này cũng được quan tâm hơn bao giờ hết. Trong bài viết này, tác giả đề xuất áp dụng giờ học e-NIE trong giảng dạy trực tuyến kỹ năng đọc tiếng Hàn cho sinh viên trình độ trung - cao cấp nhằm nâng cao hứng thú, tạo động lực học tập và nâng cao năng lực đọc hiểu cho người học. e-NIE là mô hình học tập đã được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới và đã đạt được những hiệu quả nhất định trong giáo dục nói chung và giáo dục ngoại ngữ nói riêng. Bài viết của tác giả tập trung phân tích tính hiệu quả và tầm quan trọng của e-NIE trong giáo dục ngoại ngữ, đồng thời đưa ra một số tiêu chuẩn lựa chọn tài liệu giảng dạy. Nhiều loại hình báo chí có thể áp dụng giờ học e-NIE nhưng trong nghiên cứu này, tác giả chỉ đề xuất mô hình cơ bản nhất đó là sử dụng tin tức trong giảng dạy kỹ năng đọc. Hi vọng mô hình này sẽ được áp dụng rộng rãi và đóng góp hiệu quả vào việc nâng cao chất lượng giờ học online thực hành tiếng kỹ năng nói cho sinh viên chuyên ngành tiếng Hàn. Ngày nhận 07/10/2021; ngày chỉnh sửa 09/11/2021; ngày chấp nhận đăng 16/11/2021
#Từ khóa: e-NIE #kỹ năng đọc #giảng dạy ngoại ngữ #giảng dạy trực tuyến.
ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở BỆNH NHÂN NGỘ ĐỘC CẤP HÓA CHẤT DIỆT CHUỘT KHÁNG VITAMIN K TÁC DỤNG KÉO DÀI BROMADIOLON AND FLOCOUMAFEN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị rối loạn đông máu bằng vitamin K1 trong ngộ độc hóa chất diệt chuột kháng vitamin K tác dụng kéo dài bromadiolon và flocoumafen. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 37 bệnh nhân ngộ độc cấp hóa chất diệt chuột bromadiolon và flocoumafen có rối loạn đông máu điều trị tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai từ 6/2020 đến 6/2021. Kết quả: Có 54,1% số bệnh nhân cần dùng vitamin K1 dạng truyền tĩnh mạch để điều trị rối loạn đông máu, liều vitamin K1 thường sử dụng là 60mg/ngày trong 2 ngày đầu. Bệnh nhân có nồng độ bromadiolon > 1000 ng/ml cần dùng vitmin K1 đường tĩnh mạch (81,8%) cao hơn nhóm có nồng độ bromadiolon <1000 ng/ml (58,8%). Liều vitamin K1 uống duy trì khi mới ra viện là 40 mg/ngày. Thời gian cải thiện INR về bình thường là 36 giờ (12-72 giờ). Thời gian điều trị tính theo thời gian bán thải ngắn hơn thời gian điều trị thông thường. Kết quả điều trị bệnh nhân khỏi bệnh 100%, không  để di chứng, quá trình điều trị không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Kết luận:.Vitamin K1 hiệu quả tốt trong điều trị ngộ độc hóa chất diệt chuột bromadiolon và flocoumafen. Dựa vào nồng độ hóa chất diệt chuột có thể rút ngắn thời gian điều trị.
#superwasfarin #bromadiolon #flocoumafen #vitamin K1
NHẬN XÉT CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC CẤP METHANOL TẠI TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Việt Nam chưa có thuốc giải độc đặc hiệu fomepizol, điều trị ngộ độc methanol  vào các biện pháp chính là hồi sức, lọc máu ngoài cơ thể, dùng bicarbonat tích cực và ethanol đường uống. Mục tiêu: Nhận xét tỷ lệ, đặc điểm và kết quả của các biện pháp điều trị áp dụng cho bệnh nhân ngộ độc cấp methanol tại Trung tâm chống độc (TTCĐ). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 107 bệnh nhân ngộ độc cấp methanol điều trị tại TTCĐ bệnh viện Bạch Mai từ 01/2016 đến 07/2019. Kết quả: Các biện pháp điều trị ở ngộ độc cấp methanol: Thở máy 78,5%; dùng thuốc vận mạch 43,9%, tỉ lệ bệnh nhân phải thở máy và dùng thuốc vận mạch nhóm tử vong cao hơn nhóm sống (p<0,01). Dùng bicarbonat điều trị toan máu ở 99,1% số bệnh nhân, tỉ lệ bệnh nhân dùng bicarbonat >500mEq và lượng bicarbonat phải dùng của nhóm tử vong cao hơn nhóm sống (p<0,05); có 82,2% bệnh nhân được dùng ethanol 20% đường uống, lượng ethanol trung bình là 1093,8ml; 99,1% bệnh nhân cần phải lọc máu, trong đó 90,7% là lọc máu ngắt quãng HD và 8,4% lọc máu liên tục CVVH. Thời gian lọc máu HD trung bình 7,6 ± 3,34 giờ. Tỉ lệ tử vong cao (41,1%). Kết luận: Điều trị ngộ độc cấp methanol cần sự phối hợp của các biện pháp hồi sức tích cực, sử dụng thuốc kháng độc và lọc máu.
#ngộ độc cấp #methanol #điều trị
Tổng số: 39   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4